Các lỗi phát âm trong IELTS Speaking của người trình độ dưới 6.0
Các vấn đề phát âm được coi là khá khó để khắc phục, nhất là đối với những người mới bắt đầu học tiếng Anh hoặc có trình độ IELTS 3.0 – 5.0. Tuy nhiên, bằng cách nhận thức được những lỗi sai của mình, tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết, người học hoàn toàn có thể cải thiện những vấn đề này. Trong bài viết dưới đây, Pasal sẽ khái quát các vấn đề phát âm thường gặp và đề xuất cách khắc phục.
Phát âm quan trọng như thế nào trong bài thi IELTS?
Phần thi IELTS Speaking có 4 tiêu chí để đánh giá: phát âm, từ vựng, ngữ pháp, độ trôi chảy và mạch lạc. Tuy chỉ chiếm 25% số điểm nhưng những ai đang ở trình độ dưới 6.0 lại cần chú trọng vào phát âm ngay từ đầu bởi nếu phát âm sai quá nhiều sẽ dẫn đến việc giám khảo không hiểu hoặc hiểu lầm ý tưởng của bạn thì số điểm ứng với 3 tiêu chí còn lại cũng bị ảnh hưởng theo.
Không chỉ vậy, phát âm còn ảnh hưởng tới khả năng nghe của bạn. Bằng việc nắm được cách phát âm chuẩn trong Tiếng Anh, bạn có thể cải thiện được kĩ năng nghe cũng như phân biệt được các từ có cách đọc dễ nhầm lẫn trong bài thi IELTS Listening.
Các vấn đề thường gặp trong phát âm của người có trình độ IELTS dưới 6.0
Phát âm tiếng Anh như tiếng Việt
Nguyên nhân thứ nhất của vấn đề này là vì nhiều âm của tiếng Anh không có trong tiếng Việt, và cách phát âm của hai ngôn ngữ cũng khác nhau. Vì vậy, người Việt thường có thói quen chuyển những âm khó của Tiếng Anh về những âm quen thuộc trong Tiếng Việt, dẫn đến việc phát âm sai. Đây là yếu tố đầu tiên mà bạn cần nhận thức được và khắc phục ngay để có thể phát âm chuẩn. Có rất nhiều người biết được nghĩa của các từ vựng nhưng lại không biết cách phát âm, hoặc phát âm sai. Bởi trong quá trình lớn lên và phát triển, não bộ của chúng ta đã được rèn luyện để nhận diện tốt những âm trong tiếng mẹ đẻ.
Trong quá trình học tiếng Anh, khi bạn nghe được một âm lạ, từ trước đến nay không xuất hiện trong ngôn ngữ của mình, “hệ thống lọc âm” của não bộ sẽ mặc định cho rằng âm này không có trong bộ nhớ, loại bỏ nó, và tự “gán giá trị” cho âm lạ đó thành âm nghe gần giống nhất trong tiếng mẹ đẻ. Hiện tượng này được gọi là Interlingual Interference (sự can thiệp của hai ngôn ngữ), đã được chứng minh trong những nghiên cứu về người học ngôn ngữ thứ hai ở các nước trên thế giới: Dhillon – Indonesia (2016), Sudesh Sharma – India (2015)…
Ví dụ: Âm /ð/ trong tiếng Anh thường được người học đánh đồng với âm /d/ của tiếng Việt, dẫn đến đọc từ “that” thành /dát/. Hay như âm /θ/ (think) thường được phát âm thành âm th /thờ/ (thinh).
Nguyên nhân thứ hai của việc phát âm tiếng Anh như tiếng Việt đến từ môi trường học. Có thể do bạn đã không tiếp xúc với việc phát âm tiếng Anh chuẩn ngay từ khi bắt đầu (cấp 1, cấp 2), dẫn đến việc không quan tâm đến yếu tố phát âm, hoặc không nhận thức được mình phát âm sai ở đâu để sửa.
Một trong những cách học hiệu quả đó là hãy tìm ra lỗi sai của bản thân, sau đó tìm kiếm cách khắc phục. Sau đây Pasal sẽ chỉ ra những âm tiếng Anh mà bạn thường có thói quen phát âm như tiếng Việt để sửa lại cho đúng.
Xem thêm: Bí quyết luyện thi IELTS 8.0 thành công
Các phụ âm vô thanh
Phụ âm vô thanh là những âm mà khi phát âm không làm rung thanh quản, chỉ đơn giản là những tiếng động nhẹ như tiếng gió, tiếng bật. Đó là các âm:
- /k/ Key
- /t/ Table
- /θ/ Think
- /tʃ/ Chips
- /p/ Pen
- /f/ Fire
- /s/ See
- /ʃ/ Shop
- /h/ house
Thực tế, do các âm này có cách đọc gần giống với các âm trong tiếng Việt nên chúng ta thường có xu hướng mượn những âm Tiếng Việt dễ đọc hơn để phát âm hoặc làm điều này trong vô thức mà không nhận ra mình đang phát âm sai.
Ví dụ:
Các âm /k/, /p/, /tʃ/ là các âm có cách đọc gần giống các âm /ka/, /pờ/ và /chờ/ nên nhiều người thường đọc các từ có chứa âm này trong ví dụ ở trên là key /ki/, pen /pen/, chips /chíp/. Tuy nhiên, cách phát âm chuẩn của những âm này là phải bật hơi ra chứ không hề làm rung cổ họng như các âm tiếng Việt.
Tương tự, âm /θ/ (VD: thought, think,…) cũng có cách phát âm gần giống âm /thờ/ của Tiếng Việt. Đây là một trong số những âm tương đối khó, bạn cần đặt lưỡi giữa hai hàm răng và bật hơi ra, chứ không làm rung cổ họng như âm /thờ/.
Hai âm /s/ và /ʃ/ cũng có cách phát âm gần giống nhau, thường được gọi là “sờ nặng và “sờ nhẹ”. Trong Tiếng Việt không có âm /ʃ/ mà chỉ có âm /s/ nên mọi người cũng thường đọc hai âm này như nhau. Ví dụ như cụm từ “She sees” (Cô ấy nhìn) – nhiều bạn sẽ đọc hai từ này giống nhau /si sis/, trong khi âm /ʃ/ trong từ “She” phải được nhấn mạnh hơn.
Các phụ âm hữu thanh
Phụ âm hữu thanh là những âm mà khi phát âm sẽ làm rung thanh quản. Một số phụ âm hữu thanh có cách phát âm tương đối giống các âm trong Tiếng Việt như /b/, /g/, /v/… người học cần bật hơi thêm một chút.
/b/ Ball
/m/ Man
/g/ Green
/η/ Sing
/v/ Video
/l/ Light
/z/ Zoo
/j/ Yes
/d/ Dog
/n/ Funny
/dʒ/ Jam
/r/ Right
/ð/ This
/w/ Win
/ʒ/ Visual
Không chỉ vậy, ba phụ âm /ʒ/, /dʒ/, /z/ cũng hay bị người học phát âm như âm /d/ trong tiếng Việt, dẫn đến việc phát âm sai.
Tương tự, âm /ð/ là một trong số những âm mà người học hay phát âm sai nhất.
Ví dụ như các từ “those, these, that, this” có âm đầu là /ð/ thường bị phát âm là “dâu, di, dát, dít” (thiếu cả âm cuối).
Người học cũng có thể nhầm hai âm /n/ và /l/, nhất là khi âm /l/ đứng ở cuối, dẫn đến viếc phát âm các từ call, pull, will là /côn/, /pun/, /win/.
Phát âm sai âm cuối hoặc bỏ sót âm cuối (ending sounds)
Trong tiếng Anh, âm cuối là rất quan trọng để có thể phân biệt các từ với nhau. Vậy nên khi bắt đầu học nói, nhiều người thường phát âm thiếu âm cuối, dẫn đến việc gây khó hiểu cho người bản ngữ.
Ví dụ: Các từ like /laɪk/ (thích), light /laɪt/ (ánh sáng), life /laɪf/ (cuộc sống), line /laɪn/ (đường thẳng) đều có âm đầu là /l/ và âm đôi / aɪ / nhưng âm cuối khác nhau dẫn đến khác nghĩa. Nếu bạn đọc những từ này mà không bật phụ âm cuối thì người nghe có thể hiểu nhầm thành từ “lie” /laɪ/ (dối trá).
Một lỗi phát âm cơ bản khác đó là thêm âm /s/ bừa bãi ở cuối các từ. Người học Tiếng Anh khi bắt đầu có nhận thức về âm cuối rất dễ mắc phải lỗi này, dẫn đến việc ngay cả các âm cuối như /t/, /d/,.. cũng được đọc thay bằng /s/.
Xem thêm: “NÊN HAY KHÔNG” HỌC IELTS ONLINE? ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM KHI ĐĂNG KÝ HỌC IELTS ONLINE
Nhầm lẫn giữa nguyên âm dài, nguyên âm ngắn
Nguyên âm đơn trong tiếng Anh được chia thành 2 loại, nguyên âm đơn dài và nguyên âm đơn ngắn. Các nguyên âm dài, ngắn góp phần tạo sự khác biệt về mặt ý nghĩa và phát âm của từ. Việc phân biệt âm nào là âm ngắn, âm nào là âm dài khá khó cho người những người mới bắt đầu học nói tiếng Anh. Do đó mà nhiều người thường nhầm lẫn các âm dài ngắn với nhau.
Ví dụ:
Nhầm lẫn âm /ɪ/ và âm /i:/
Việc phát âm nhầm lẫn hai âm ngắn, dài này khiến đối phương hiểu nhầm ý người nói. Ví dụ như: nếu người nói phát âm từ “leave” với nguyên âm /ɪ/ ngắn thì người nghe có thể hiểu thành từ “live”.
Tương tự:
knit /nɪt/ – need /ni:d/
rid /rɪd/ – read /ri:d/
sit /sɪt/ – seat /si:t/
Nhầm lẫn âm /uː/ và âm /ʊ/
Nhiều người cũng rất dễ nhầm hai âm này thành một.
Ví dụ như: 2 từ “food” và “foot” thường được phát âm như nhau, trong khi cách phát âm chuẩn từ foot là với nguyên âm /u/ ngắn và âm cuối là /t/ khác với từ “food” – được phát âm với âm /u:/ dài và âm cuối là /d/.
Tương tự với would /wʊd/ và wood /wu:d/.
Xem thêm: TỔNG HỢP NHỮNG BỘ PHIM TIẾNG ANH HOT NHẤT GIÚP LUYỆN THI IELTS
Sai số lượng âm tiết trong một từ
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, tức là một từ sẽ được cấu thành từ một âm tiết. Ví dụ: từ “cây” là một âm, “lá” là một âm. Nhưng tiếng Anh lại là ngôn ngữ đa âm. Một từ tiếng Anh có thể bao gồm nhiều âm tiết khác nhau. Ví dụ: khi đọc từ “English” /ˈɪŋɡlɪʃ/: người đọc ghép hai âm Eng /ɪŋɡ/ và lish /lɪʃ/ lại.
Do bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ nên một số người học thường có khuynh hướng xác đinh sai số lượng âm tiết trong một từ như:
Những từ có một âm tiết đôi khi bị người học phát âm thành hai âm tiết. Ví dụ: từ “green” vốn có một âm tiết bị người học đọc tách thành “gờ rin”, trong khi hai âm này phải đọc liền thành một.
Hoặc trong ví dụ khác, khi gặp một từ không biết, người học thường phân tách các âm của từ theo cách đánh vần, như từ “restaurant” thường bị đọc thành “rét – tau – rần”, trong khi phiên âm của từ này là /ˈrestrɒnt/ – hai âm tiết.
Không nhấn trọng âm của từ
Trong tiếng Việt có dấu để phân biệt với các từ khác. Như các từ “cây – cấy – cậy – cầy”, tuy vần giống nhau nhưng có dấu khác nhau dẫn đến nghĩa của từ khác nhau. Trong khi đó, tiếng Anh không có thanh điệu, là ngôn ngữ đa âm tiết và chú trọng vào cách nhấn trọng âm. Những từ có hai âm tiết trở lên luôn có một âm tiết phát âm khác biệt hẳn so với những âm tiết còn lại về độ lớn, độ dài và độ cao. Âm tiết nào được kéo dài và nhấn mạnh hơn các âm khác trong cùng một từ thì trọng âm rơi vào âm tiết đó.
Những người mới học nói tiếng Anh thường không nhấn trọng âm của từ, hoặc nhấn sai trọng âm, làm giảm tính tự nhiên hoặc trong một số trường hợp gây khó hiểu trong giao tiếp. Ví dụ: việc người học nhấn trọng âm sai hoặc thiếu trọng âm sẽ làm thay đổi nghĩa của từ mà người muốn nói như từ “present” có 2 cách đánh trọng âm. Nếu trọng âm rơi vào âm tiết đầu /’prezәnt/, thì “present” sẽ được hiểu là danh từ món quà hoặc hiện tại. Ngược lại, trọng âm rơi vào âm tiết thứ hai /pri’zent/ thì từ này sẽ được hiểu là động từ – đưa ra, giới thiệu, trình bày.
Trên đây là những vấn đề thường gặp trong IELTS Speaking của những người học có trình độ tương đương dưới 6.0. Hy vọng rằng bài viết này sẽ giúp các bạn phần nào cải thiện được kỹ năng Speaking của mình cũng như giúp bạn chinh phục được mục tiêu IELTS trong tương lai gần. Đừng quên luôn có Pasal đồng hành cùng bạn với các khóa học IELTS chất lượng, áp dụng độc quyền – chính thống phương pháp luyện thi của thầy Simon Corcoran nhé!
Tham khảo ngay các khóa học IELTS của Pasal tại đây.